Giáo xứ Thánh Tâm- Thủ Thiêm đã tổ chức ba buổi Tĩnh tâm mùa Chay, từ 17g30 mỗi ngày, từ thứ Sáu 4/3/2016 đến Chúa Nhật 6/3/2016, với chủ đề Tĩnh tâm mùa Chay Năm Thánh Lòng Thương Xót.
Buổi tĩnh tâm thứ nhất do Cha Gioan Thiên Chúa Nguyễn Phước, Chánh xứ Thánh Phanxicô Đa Kao phụ trách. Với chủ đề: “Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, được mạc khải trong Cực ước và trong lịch sử dân Israel, qua bài Phúc Âm Thứ Tư thứ I Mùa Chay, (Lc, 11,29-32)- “Dân thành Ni- Ni- vê bỏ đường gian ác mà trở lại”.
Buổi tĩnh tâm thứ hai do Cha Giuse Phạm Đình Tài, Chánh xứ GX Thánh Tâm, Giáo hạt Thủ Thiêm phụ trách. Với chủ đề: “Chúa Giêsu gương mặt hữu hình của Lòng thương xót Chúa Cha vô hình”, được mạc khải trong Tân Ước. qua bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ IV Mùa Chay, (Lc, 15,1-3.11-32)- “Em con đây đã chết mà nay sống lại ”.
Buổi tĩnh tâm thứ Ba do Cha Giuse Phạm Văn Bình, Chánh xứ GX An Tôn, Cầu Ông Lãnh phụ trách.
Với chủ đề “Mỗi người chúng ta đã thực thi lòng thương xót như thế nào trong cuộc sống của mình?”, qua bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ IV Mùa Chay, (Lc, 15,1-3.11-32)- “Em con đây đã chết mà nay sống lại ”.
Bài giảng Tĩnh tâm thứ Sáu 4/3/2016
Xin trích nguyên văn những chia sẻ bài giảng tĩnh tâm của Cha Gioan Thiên Chúa Vinh
Phước, Chánh xứ Thánh Phanxicô Đa Kao.
Chủ đề Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, được mạc khải trong Cực ước và trong lịch sử dân Israel. Qua bài Phúc Âm Thứ Tư thứ 1 Mùa Chay, (Lc, 11,29-32)-
“Dân thành Ni- Ni- vê bỏ đường gian ác mà trở lại”.
Cha Gioan Thiên Chúa Vinh Phước,
Chánh xứ Thánh Phanxicô Đa Kao
Mở đầu Cha mời gọi cộng đoàn chiêm nghiệm câu nói của Đức Giáo Hoàng:” Chúng ta cần liên lỉ chiêm ngưỡng mầu nhiệm của lòng thương xót, đây là suối nguồn tươi vui, tĩnh lặng và an bình, đây là điều kiện để chúng ta lãnh nhận ơn cứu độ”.
Chúng ta hãy dành ít phút để chiêm ngưỡng lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta sẽ có được sự an bình, có được Ơn cứu độ của Ngài ban cho chúng ta.
Cha mời gọi mọi người xem tấm hình có một con cá, có một con người, phía sau có một chiếc thuyền. Tấm hình làm cho mọi người liên tưởng câu chuyện ngôn sứ Giona.
Chúa đã chọn tiên tri Giona, hãy đứng dậy và đi đến thành phố lớn và hô cho dân thành Ni Ni Vê rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới Cha. Chúa cần Zona, Chúa cần mỗi người chúng ta. Chúa sai Giona. Điểm đầu tiên chúng ta cần phải nhớ rằng chúng ta được Chúa gọi và được Chúa sai đi để ra đi, loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa. Bí tích thêm sức mà mỗi người chúng ta đã lãnh nhận để làm chứng cho Chúa, chúa đã chọn Giona, Chúa đã chọn mỗi người chúng ta. Chúa muốn ông Giona quay về thành Ni ni vê thông báo cho dân thành biết những việc sai trái mà Chúa đã biết. Ông đứng dậy nhưng ông đã không đồng tình với Chúa, ông nói rằng dân Ni ni vê sống ác hãy để nó chết đi, ông không muốn Thiên Chúa rộng lòng thương xót, ông lên thuyền nhưng ông đi hướng khác, tránh nhan Đức Chúa. Trong câu chuyện này ta cứ tưởng chỉ có dân thành Ni ni vê là những người có tội, nhưng không phải như vậy, người có tội là người được Chúa tỏ lòng thương xót, đó là Ông Giona.
Chúa đã để ý, quan tâm đến chúng ta, đó là diễn tả đầu tiên lòng thương xót của Thiên Chúa đối với chúng ta. Hình ảnh người Cha nhân từ ôm chầm đứa con hoang đàng quay trở lại, Thiên Chúa đã chú ý tới những điều lành phúc đức cũng như những điều xằng bậy của mỗi người chúng ta thực hiện trong đời sống. Trong thánh Vịnh 139, chúng ta ngẫm lại: “ Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết là khi con đứng con ngồi, con nghĩ ý tưởng gì Ngài đã thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi Ngài quen thuộc cả, miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, Ngài đã tưởng đến, Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài đã đặt lên con, kỳ diệu thay tri thức siêu phàm, quá cao vời con chẳng sao vươn tới. Tình thương của Thiên Chúa được diễn tả qua việc Ngài quan tâm, chú ý tới chúng ta. Chúng ta phải cảm tạ Chúa về điều đó.
Điều thứ hai là sự gian nan mà Chúa thấy dân thành Ni ni vê phải chịu. Chúa đã sai Giona đi thông báo họ biết chúa đã thấy gian nan của họ và họ phải quay về với Chúa, Chúa mong muốn họ quay về với Chúa và lòng thương xót của Chúa là như thế. Tiên tri Ê mi ca diễn tả như sau: “Thần minh nào sánh được như Ngài, Đấng chịu đựng lỗi lầm, Đấng bỏ qua tội ác, cho phần còn sót lại. Người không giữ mãi cơn giận nhưng chuộng lòng nhân nghĩa. Người thương xót chúng ta, tội lỗi chúng ta người chà đạp, ném xuống đáy biển. Lòng thương xót của Chúa là như thế, chúng ta đừng sợ Thiên Chúa thấy tội của chúng ta, ngài mong muốn chúng ta quay trở về với Chúa thú nhận tội lỗi của mình. Chúng ta chưa mở miệng xưng ra tội Chúa cũng đã tha tội cho chúng ta rồi. Chúa quan tâm đến chúng ta, Chúa muốn những điều tốt đẹp nhất, đó là Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ, Thiên Chúa của lòng thương xót”.
Đức Giáo Hoàng Phanxico đã nói về Năm Thánh Lòng thương xót như sau: “Lòng thương xót của Thiên Chúa là trách nhiệm của Ngài đối với chúng ta, Ngài cảm thấy bị ràng buộc bới chúng ta, nghĩa là Ngài muốn điều tốt cho chúng ta, muốn thấy chúng ta hạnh phúc, vui tươi và an bình.” Chúa chịu trách nhiệm tới đời sống chúng ta, hạnh phúc, bất hạnh của chúng ta, Chúa đều chú ý . Trong khi Chúa đối xử với chúng ta như thế, chúng ta lại đi kết án tội, thấy và kết án tội của người khác, chúng ta không tin người xấu có thể trở về, chúng ta không chấp nhận sự hoán cải của người tội lỗi. Đó là thái độ của chúng ta, chúng ta buồn, chúng ta giận dữ vì Chúa tha thứ cho người tội lội. Đó là sự khác biệt giữa Thiên Chúa và chúng ta.
Ông Giona đã không đồng tình với Thiên Chúa, không muốn Thiên Chúa tha thứ cho người tội lỗi, ông đã tránh mặt Thiên Chúa. Điều gì đã xảy ra khi ông lên thuyền, Chúa đã tung ra một cơn gió to trên biển, liền có một trận bảo lớn ngoài khơi tường chừng thuyền sắp vỡ tan. Ta thấy sự khác biệt giữa con người và vạn vật vũ trụ, trong khi con người chúng ta cãi lời Thiên Chúa thì vũ trụ vạn vật đã vâng lời Chúa. Khi cơn bão xảy ra thì mọi người kêu cứu vị thần linh của mình, trong khi ông Giona thì nằm ngủ mê mệt. Mọi người thắc mắc ông là ai mà không kêu cứu vị thần linh của mình, Giona đã xác nhận mình là sứ ngôn của Chúa, vì ông trốn tránh Chúa, vì ông không vâng lời nên đã xảy ra bão lớn, và ông yêu cầu mọi người hãy quăng ông xuống biển thì cơn bão sẽ không còn nữa. Tuy nhiên thái độ của những người này hoàn toàn khác biệt, họ là những người ngoại giáo nhưng họ đã kêu lên Đức Chúa: “ Ôi Lạy Đức Chúa, ước gì chúng con không phải chết vì mạng sống người này, và xin đừng đổ máu người vô tội vào đầu chúng con”. Họ là những người ngoại giáo nhưng họ đã tôn trọng và nghĩ đến mạng sống của Ông Giona, trong khi Ông Giona là người của Thiên Chúa lại không nghĩ đến mạng sống của dân thành Ni ni vê.
Và Chúa đã để con cá nuốt Giona vào bụng, nơi đó Giona mới nhận ra Ơn cứu độ và kêu cầu Chúa: “ Trong cảnh ngặt nghèo con đã kêu tới Chúa, Người đã thương đáp lời. Lạy Chúa từ lòng âm phủ con cầu cứu, Ngài đã nghe tiếng con, Ngài đã ném con vào vực sâu giữa lòng biển, làn nước mênh mông với lòng con sóng cồn theo nước cuốn. Khi mạng sống con hầu tàn con đã nhớ đến Chúa và lời cầu nguyện của con đã tới Ngài, tới đền Thánh của Ngài. Bọn thờ thần hư ảo chớ gì chúng bỏ điều chúng đã tôn sùng, phần con giữa tiếng hát tạ ơn con sẽ cứu dân Ngài để con giữ trọn điều con đã khấn nguyện, Đức Chúa mới là Đắng ban ơn cứu độ.”
Sau đó con cá đã nhả Giona lên bờ biển, Chúa đã nói với Giona: “ Hãy đứng dậy và quay về Ni ni vê thành phố lớn, hãy tỏ lộ cho dân thành biết lời tuyên cáo ta sẽ truyền cho ngươi.” Lúc này Giona miễn cưỡng vâng lời Chúa và điều gì xảy ra? Điều xảy ra đã ngược lại với hiểu biết và tính toán của Giona. Kinh Thánh nói rằng Thành Ni vi nê là 1 thành phố lớn, muốn đi hết phải hết 3 ngày đàng, vậy mà Giona mới đi có một ngày đàng thôi thì dân thành từ Đức Vua đến tất cả, kể cả thú vật, tin mà ăn chay, mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Họ đã ăn chay, tỏ lòng sám hối, họ còn nghe lời Đức Vua kêu gọi mọi người bỏ đường gian ác, hành vi bạo lực của mình, biết đâu Chúa nghĩ lại, bỏ ý định gián phạt, người nguôi cơn thịnh nộ khiến chúng ta khỏi phải chết. Sự hoán cải chỉ là những hành vi bên ngoài mà thôi, quan trọng là thay đổi đời sống, dân thành Ni ni vê đã vâng lời quay trở về với Chúa. Trước thay đổi của dân thành Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót, Ngài hối tiếc và đã không giáng tai họa xuống nữa.
Thiên Chúa đã thứ tha tội lỗi, đã giàu lòng thương xót đối với chúng ta. Thái độ của ông Giona khi quay về, ông bực mình và nhìn về phía thành Ni ni vê để chờ xem Thiên Chúa có gián phạt dân thành hay không. Mặc dù ông vẫn luôn tin và cầu nguyện: “Xin Chúa giàu lòng thương xót, chậm giận và giàu tình thương”.
Thiên Chúa đã thương và biến đổi Giona, Chúa cho mọc lên 1 cây thầu dầu che nắng cho ông, Giona vui lắm, sau đó Chúa lại cho 1 con sâu cắn cây thầu dầu, khiến cây thầu dầu khô héo, Giona lại nổi giận, Chúa hỏi Giona, ngươi tức giận cây thầu dầu đang che mát cho ngươi bị hư, có lý hay ko, Chúa mời gọi Giona: “Ngươi thương hại cây thầu dầu bị chết mà ngươi không vất vả vì nó và ngươi không làm cho nó hướng lên. Trong 1 đêm nó sinh ra, trong 1 đêm nó chết đi. Còn ta, ta không thương thành Ni ni vê, 1 thành phố lớn sao được, khi hơn 120 ngàn người không phân biệt được bên phải hay bên trái, và lại có nhiều thú vật hay sao?”
Chúa lại càng có lý do để yêu thương Ni ni vê hơn nữa, vì họ là những con người được Chúa dựng nên, vì Chúa muốn các tạo vật Chúa dựng nên được hạnh phúc, đó là lòng thương xót của Thiên Chúa. Chúa luôn muốn dành cho mỗi người chúng ta những điều tốt đẹp nhất, muốn chúng ta được hạnh phúc nhất. Chúa muốn tất cả chúng ta được sống trong tình yêu thương của Chúa. Mọi vạn vật đều vâng phục Chúa trừ vị ngôn sứ.
Thánh Phanxicô có 1 huấn ngôn: “ Người ơi hãy nhìn xem Thiên Chúa đã đặt ngươi lên địa vị cao quí dường nào, Người đã tạo dựng và nắn nót ngươi theo hình ảnh của con yêu dấu của Người, và tinh thần ngươi cũng nên như tinh thần con của Người. Thánh Phanxicô mời gọi chúng ta nhìn tới vẻ cao cả của mỗi người chúng ta, chúng ta được dựng nên, chúng ta được làm người, chúng ta được nên giống Chúa.” Nhưng mà thực tế thì, “Vậy mà mọi tạo vật dưới vòm trời theo phương cách của chúng đều phụng sự, nhận biết, phục tùng Đấng tạo hóa phân giải chính ngươi, lại nữa không phải ma quỷ đã đóng đinh Người, nhưng chính ngươi đã đóng đinh Người khi tìm lạc thú trong nết xấu tội lỗi.”
Câu chuyện Giona nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta thiếu vâng phục Thiên Chúa, chúng ta cao quí hơn vũ trụ này nhưng xét về sự vâng phục chúng ta thiếu sự vâng phục, thua kém vạn vật vũ trụ, để rồi chúng ta phải biết quay về với Chúa, vâng phục Chúa.
Trong khi Ông Giona nằm ngủ thì người ngoại trên tàu cầu xin thần của họ, họ cố gắng chèo vào bờ, không muốn thí mạng như ông Giona, trong khi ông Giona thì muốn thấy cả thành Ni ni vê phải bị tiêu diệt. Sóng yên để làm người ngoại trên tàu nhận biết, kính sợ và dâng hy lễ lên Thiên Chúa, còn ông Giona thì bình thản vô sự.
Điều đó đã nhắc nhở chúng ta, nhiều khi chúng ta là những người con chí ái của Chúa mà cuộc sống của chúng ta còn thua kém những người xung quanh của chúng ta.
Chúng ta phải thú nhận như vậy, thua kém những người chưa biết Chúa sống chung quanh chúng ta. Đây là dịp để chúng ta ăn năn sám hối, chúng ta quay trở về với Chúa. Đáng ra chúng ta là những người được biết Chúa, được Chúa yêu thương, được Chúa cứu chuộc, được Chúa đón nhận làm con cái của Chúa, chúng ta phải sống một cuộc sống khác, nhưng chúng ta lại sống xa cách Chúa, thua kém những người khác. Chúng ta cần quay trở về với Chúa. Trong dụ ngôn người cha nhân từ chúng ta cũng thấy hình ảnh của người con cả, đã nổi giận và không chịu vào nhà khi thấy em của mình quay trở về. Chúng ta không đồng tình với Chúa, chúng ta không có lòng thương xót của Chúa.
Hay trong dụ ngôn ông chủ và thợ làm vườn nho, khi ông chủ trả người mới vào làm 1 đồng, trong khi người làm cũ phải tưới cả ngày cũng chỉ 1 đồng, họ đã càm ràm rằng ông chủ không công bằng, và ông chủ đã nói như vầy: “Thay vì thấy tôi tốt bụng mà bạn đâm ra ghen tỵ” . Đây là dịp chúng ta nhìn lại thái độ của chúng ta có lòng thương xót như Thiên Chúa đấng giàu lòng thương xót hay không?
Cha chia sẻ thêm, mới đây trên giáo xứ của tôi có hai anh chị, chị học tân tòng theo Đạo, hai anh chị tới nói với tôi: Thưa Cha, chúng con học như vậy nhưng không biết chúng con có làm đám cưới được hay không, vì phía bên chồng tự hào rằng mình là đạo gốc nên không chấp nhận con mình lấy người không phải đạo gốc, trong họ hàng có các Cha, các Thầy, lại càng có lý do để con mình không lấy người ngoại, cho dù cô gái có quay trở lại cũng không có đón nhận. Chúng ta thấy thái độ từ khước của chúng ta, cái lối sống của chúng ta xa cách lòng thương xót của Thiên Chúa, để rồi chúng ta quay trờ về với Chúa.
Tình yêu của chúng ta thì có giới hạn, đôi khi mâu thuẫn, nhưng yêu thương theo cách của Thiên Chúa thì luôn yêu thương và tha thứ. Thiên Chúa luôn yêu thương và tha thứ. Chúng ta phải luôn yêu thương, không có sự ghen ghét trong đó, luôn yêu thương và phải luôn tha thứ. Khi Chúa Phêrô hỏi Chúa phải tha thứ mấy lần, có phải tha thứ 7 lần không, Chúa nói không phải tha thứ 7 lần mà tha thứ 70 lần 7. Lòng thương xót của Thiên Chúa là vậy, luôn yêu thương, luôn tha thứ. Vì vậy chúng ta hãy cầu nguyện cho mỗi người chúng ta cảm nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, để rồi mỗi người chúng ta có lòng nhân từ như Cha của chúng ta là Đấng nhân từ.
Chúa nhân từ Ngài là Đấng vô hình, ngài đã dùng các ngôn sứ để thể hiện lòng thương xót của ngài trên dân của ngài, qua đó chúng ta có thể thấy lòng thương xót của Chúa bao dung và luôn tha thứ cho chúng ta. Lời chia sẻ của Cha hôm nay, giúp cho cộng đoàn hết lòng yêu mến Chúa hơn, xác tín hơn về lòng thương xót của Chúa.
Kết lễ Cha Gioan Thiên Chúa cầu chúc cho tất cả mọi người có được con mắt như Chúa Giêsu, là đấng giàu lòng thương xót, để chúng ta có thể chia sẻ lòng thương xót đó cho những người sống chung quanh chúng ta.
Bài giảng Tĩnh tâm thứ Bảy 5/3/2016
Xin trích nguyên văn những chia sẻ của Cha Giuse Phạm Đình Tài, Chánh xứ GX Thánh Tâm, Giáo hạt Thủ Thiêm phụ trách.
Với chủ đề: Đức Giê-su “gương mặt hữu hình của Chúa Cha vô hình”, được mạc khải trong Tân Ước. qua bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ IV Mùa Chay, (Lc, 15,1-3.11-32)-
“Em con đây đã chết mà nay sống lại ”.
Cha Giuse Phạm Đình Tài, Chánh xứ GX Thánh Tâm, Thủ Thiêm
Hôm nay Giáo xứ chúng ta tĩnh tâm mùa chay theo chủ đề “Năm Thánh Lòng Thương Xót”. Mục đích là giúp anh chị em hiểu và thực hành “Thương xót như Chúa Cha” trong năm Thánh này.
Hôm qua ACE đã được cha Gioan Nguyễn Phước trình bày Đề tài 1: “Thiên Chúa là Đấng Giàu lòng thương xót”. Mạc khải trong Kinh Thánh (TƯ và CƯ) và trong lịch sử Israel. Lòng thương xót của Thiên Chúa được thực hiện qua các tổ phụ, các ngôn sứ và qua các Giao ước. Chính trong Giáo ước mà lòng thương xót của Thiên Chúa được tỏ bày hơn hết.
Hôm nay chúng ta bước vào đề tài 2: Đức Giê-su “Gương mặt hữu hình của Chúa Cha vô hình”. Trình bày Đức Giê-su của Lòng thương xót theo các sách của bộ Tân ước.
Và đề tài 3: Lòng Thương Xót là cuộc sống của các Ki-tô hữu. sẽ được cha Giu-se Phạm văn Bình giảng tối mai.
Mở đầu Tông sắc Dung Mạo Lòng Thương Xót (Misericordiae Vultus), ĐGH Phanxicô viết: “Dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha chính là Đức Kitô Giêsu”. Xin Chúa cho chúng ta hiểu thấu lòng thương xót của Chúa để chúng ta luôn thực thi lòng thương xót của Thiên Chúa cho mọi người trong cuộc sống. Xin Chúa tha thứ những bất xứng để chúng ta cử hành thánh lễ cho xứng đáng.
Thông thường ông bà anh chị em nhận được sự an thật sự khi nào?
Có phải là lúc chúng ta nhận được những lời khuyên, ta phải đi đâu và phải làm gì không?
Có phải là lúc chúng ta nghe được những lời an ủi và hy vọng không?
Chúng ta hãy cùng nhau trả lời câu hỏi: chúng ta nhận được sự bình an thật sự khi nào?
Có phải là lúc chúng ta nhận được những lời khuyên, ta phải đi đâu và phải làm gì không?
Có phải là lúc được nghe những lời an ủi để rồi chúng ta hy vọng?
Đôi khi có lẽ là như thế.
Nhưng điều thực sự đáng giá đó là trong những lúc đau khổ, có một ai đó ở với ta. Sự hiện của một người nào đó quan tâm tới ta quan trọng hơn những lời khuyên và mọi hành động.
Nhưng điều thực sự đáng giá, đó là trong những lúc đau khổ, có một ai đó ở với ta, quan tâm đến ta, sự hiện diện của họ còn quan trọng hơn những lời khuyên và mọi hành động.
Khi một người nào đó nói với ta giữa những lúc khủng hoảng: “Tôi không biết phải nói gì, làm gì, nhưng tôi muốn bạn biết rằng tôi đang ở với bạn, tôi sẽ không bỏ bạn một mình”, nhờ họ ta có thể tìm được ủi an, nâng đỡ, không phải một mình.
Những an ủi nâng đỡ ta là nhờ việc họ ở với ta trong những lúc bệnh hoạn y hệt như những người có máu mủ, ruột thịt với ta vậy.
Khi một ai đó nói với ta giữa lúc ta đang khủng hoảng, bệnh hoạn: “Tôi không biết phải nói gì, làm gì, nhưng tôi muốn bạn biết rằng tôi đang ở với bạn, tôi sẽ không bỏ bạn một mình”, nhờ họ mà ta có thể tìm được ủi an, nâng đỡ, ta không phải một mình, cảm giác như ta đang ở với những người thân máu mủ vậy.
Trong ca dao tục ngữ Việt Nam có nói tới hình ảnh với người phụ nữ khi đã có chồng, họ thường cho đó là số kiếp mà trời đã đã định, là số phận đã an bài nên không thể thay đổi, họ chỉ biết một mực chung thủy với chồng:
Ca dao tục ngữ Việt Nam có nói tới hình ảnh người phụ nữ khi đã có chồng, họ thường cho đó là số kiếp mà trời đã định, là số phận đã an bài nên không thể thay đổi, họ chỉ biết một mực chung thủy với chồng:
Đi đâu cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
Thiên Chúa Ngài cũng chọn như vậy để thể hiện lòng thương xót của Ngài là đính thân Ngài đến ở luôn với con người, Ngài trung thành và chấp nhận cảnh đói no, lạnh lùng của kiếp người, yêu thương con người.
Thiên Chúa, Ngài cũng đã chọn cách như vậy để thể hiện lòng thương xót của Ngài, là đích thân Ngài đến ở lại với con người, Ngài trung thành và chấp nhận cảnh đói no, lạnh lùng của kiếp người, vì Thiên Chúa yêu thương con người.
Thánh sử Mát-thêu, sau khi mô tả việc Giáng sinh của Chúa Giê-su, đã viết như sau: “Tất cả những sự việc này xẩy ra, là để ứng nghiệm lời xưa kia Chúa phán qua miệng ngôn sứ: Này đây trinh nữ sẽ thụ thai và sinh hạ một con trai, người ta sẽ gọi tên con trẻ là Emmanuel, nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1, 22-23).
Ngay khi gọi Thiên Chúa là “Thiên Chúa ở với ta”, thì ta đã bước vào trong mối tương quan mật thiết với Ngài. Khi gọi Ngài Emmanuel, ta nhìn nhận rằng Ngài đã dấn thân sống trong sự liên đới với ta, để chia sẻ niềm vui và nỗi buồn của ta, để bảo vệ gìn giữ ta, để cùng ta chịu đựng mọi sự của cuộc sống. Vị Thiên Chúa ở với ta là vị Thiên Chúa gần gủi, một vị Thiên Chúa ta gọi là nơi ta nương ẩn, là sức mạnh, là sự khôn ngoan của ta, thậm chí cách thân mật hơn, là đấng trợ giúp, là mục tử, là tình yêu của ta. Ta sẽ không bao giờ biết cách đích thật Thiên Chúa là vị một vị Thiên Chúa xót thương nếu ta không hiểu thấu với tất cả lòng, trí “Ngài đã sống giữa ta” (Ga 1,14).
Ngay khi gọi Thiên Chúa là “Thiên Chúa ở với ta”, thì ta đã bước vào trong mối tương quan mật thiết với Ngài.
Khi gọi Ngài Emmanuel, ta nhìn nhận rằng Ngài đã dấn thân sống trong sự liên đới với ta, để chia sẻ niềm vui và nỗi buồn, để bảo vệ gìn giữ ta, để cùng ta chịu đựng mọi sự của cuộc sống. Vị Thiên Chúa ở với ta là vị Thiên Chúa gần gủi, một vị Thiên Chúa ta gọi là nơi ta nương ẩn, là sức mạnh, là sự khôn ngoan của ta, thậm chí cách thân mật hơn, là đấng trợ giúp, là mục tử, là tình yêu của ta.
Ta sẽ không bao giờ biết cách đích thật Thiên Chúa là vị một vị Thiên Chúa xót thương nếu ta không hiểu thấu với tất cả lòng, trí “Ngài đã sống giữa ta” (Ga 1,14).
Ta thường nói với nhau bằng giọng cay đắng: “Bạn không hiểu bạn đang nói gì, vì bạn không xuống đường, không tham dự vào cuộc đình công, hoặc chỉ kinh nghiệm về sự thù ghét của những người ngoài cuộc, vì bạn chưa bao giờ phải đối khổ, chưa hề biết lạnh giá, hay chưa hề cảm thấy bị bỏ rơi”. Khi nói những điều ấy, ta đang diễn tả niềm xác tín sâu sắc rằng ta chỉ sẵn sàng lắng nghe những lời an ủi khi chúng phát sinh từ tình liên đới với điều kiện đã hoặc đang là của ta. Thiên Chúa muốn biết điều kiện của ta cách đầy đủ và không muốn lấy đi những đau khổ mà chính Ngài chưa một lần nếm thử cách trọn vẹn. Lòng thương xót của Ngài bắt nguồn từ sự liên đới mật thiết nhất, một sự liên đới cho phép ta nói như tác giả Thánh vịnh: “Ngài là Thiên Chúa của ta, còn ta là dân Ngài lãnh đạo, là đoàn chiên Ngài chăm sóc” (Tv 95,7).
Ta thường nói với nhau bằng giọng cay đắng: “Bạn không hiểu bạn đang nói gì, vì bạn không xuống đường, không tham dự vào cuộc đình công, hoặc chỉ kinh nghiệm về sự thù ghét của những người ngoài cuộc, vì bạn chưa bao giờ phải đối khổ, chưa hề biết lạnh giá, hay chưa hề cảm thấy bị bỏ rơi”.
Khi nói những điều ấy, ta đang diễn tả niềm xác tín sâu sắc rằng, ta chỉ sẵn sàng lắng nghe những lời an ủi khi chúng phát sinh từ tình liên đới với điều kiện đã hoặc đang là của ta.
Thiên Chúa muốn biết điều kiện của ta cách đầy đủ và không muốn lấy đi những đau khổ mà chính Ngài chưa một lần nếm thử cách trọn vẹn.
Lòng thương xót của Ngài bắt nguồn từ sự liên đới mật thiết nhất, một sự liên đới cho phép ta, nói như tác giả Thánh vịnh: “Ngài là Thiên Chúa của ta, còn ta là dân Ngài lãnh đạo, là đoàn chiên Ngài chăm sóc” (Tv 95,7).
Để yêu thương hết lòng, Thiên Chúa chọn cách đến ở với con người, nhưng không phải trong cảnh giàu sang mà trong cảnh đói nghèo, nô lệ để hiểu thấu nhu cầu của con người để Ngàii yêu thương. Trong bài thánh ca về Đức Ki-tô người tôi tớ: “Ngài trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế”, thánh Phao-lô cho thấy rằng Thiên Chúa luôn mạc khải tình yêu của Ngài dành cho ta trong việc Ngài đến với ta với tư cách là tôi tớ. Mầu nhiệm lớn lao của lòng thương xót của Thiên Chúa chính là trong lòng thương xót của Ngài, trong việc Ngài cùng ta bước vào trong điều kiện của một kẻ nô lệ, Ngài mặc khải cho ta biết Ngài chính là Thiên Chúa. Nên ta có thể nói rằng việc đi xuống như ta thấy ở trong Chúa Giê-su Kitô không phải là một chuyển động đi xa khỏi Thiên Chúa, mà là một chuyển động hướng về Thiên Chúa như Ngài đích thật là Ngài: một vị Thiên Chúa vì ta, đến không phải để thống trị mà để phục vụ. Điều này muốn nói cách đặc biệt rằng Thiên Chúa không muốn ta biết Ngài ngoài tình trạng tôi tớ và như thế cũng có nghĩa là, tình trạng tôi tớ chính là việc tự mạc khải mình của Thiên Chúa.
Để yêu thương hết lòng, Thiên Chúa chọn cách đến ở với con người, nhưng không phải trong cảnh giàu sang mà trong cảnh đói nghèo, nô lệ để hiểu thấu nhu cầu của con người.
Trong bài thánh ca về Đức Ki-tô người tôi tớ: “Ngài trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế”, thánh Phao-lô cho thấy rằng Thiên Chúa luôn mạc khải tình yêu của Ngài dành cho ta trong việc Ngài đến với ta với tư cách là tôi tớ.
Mầu nhiệm lớn lao của lòng thương xót của Thiên Chúa chính là trong lòng thương xót của Ngài, trong việc Ngài cùng ta bước vào trong điều kiện của một kẻ nô lệ, Ngài mặc khải cho ta biết Ngài chính là Thiên Chúa.
Nên ta có thể nói rằng việc đi xuống như ta thấy ở trong Chúa Giê-su Kitô không phải là một chuyển động đi xa khỏi Thiên Chúa, mà là một chuyển động hướng về Thiên Chúa như Ngài đích thật là Ngài: một vị Thiên Chúa vì ta, đến không phải để thống trị mà để phục vụ.
Điều này muốn nói cách đặc biệt rằng Thiên Chúa không muốn ta biết Ngài ngoài tình trạng tôi tớ và như thế cũng có nghĩa là, tình trạng tôi tớ chính là việc tự mạc khải mình của Thiên Chúa.
Ta biết được điều ấy vì trong Chúa Giê-su, lòng xót thương của Thiên Chúa đã trở thành hữu hình đối với ta. Chúa Giê-su không chỉ nói: “ Hãy xót thương như Cha anh em là Đấng xót thương”. Ngài còn là hiện thân cụ thể của lòng xót thương của Thiên Chúa trong thế giới của ta. Đáp trả của Ngài đối với những người ngu muội, nghèo đói, đui mù, phong cùi, góa bụa và tất cả những ai đến với Ngài với những nỗi khổ đau của mình, xuất phát từ lòng thương cảm của Thiên Chúa, một lòng thương cảm đã khiến Thiên Chúa trở thành một người ở giữa ta. Ta cần để ý kỹ những lời nói và hành động của Chúa Giêsu, nếu ta muốn có được một nhận thức về mầu nhiệm của lòng xót thương này của Thiên Chúa. Ta sẽ hiểu lầm nhiều chuyện lạ lùng trong Tin Mừng nếu ta chỉ biết để cho mình bị ấn tượng bởi sự kiện những người bệnh hoạn, tật nguyền bất chợt được giải thoát khỏi tình trạng của họ. Nếu đây quả là biến cố trung tâm của các câu chuyện ấy, thì những kẻ hồ nghi có lẽ đã nhận xét ngay rằng hầu hết những người đương thời với Chúa Giêsu đã không được chữa lành và những kẻ được chữa lành chỉ làm cho tình trạng bi đát hơn những kẻ không được chữa lành. Điều quan trọng ở đây không phải là việc chữa lành những kẻ bệnh hoạn, mà là lòng xót thương sâu thẳm đã thôi thúc Chúa Giêsu thực hiện những cuộc chữa lành ấy.
Ta biết được điều ấy vì trong Chúa Giê-su, lòng xót thương của Thiên Chúa đã trở thành hữu hình đối với ta. Chúa Giê-su không chỉ nói: “ Hãy xót thương như Cha anh em là Đấng xót thương”. Ngài còn là hiện thân cụ thể của lòng xót thương của Thiên Chúa trong thế giới của ta. Đáp trả của Ngài đối với những người ngu muội, nghèo đói, đui mù, phong cùi, góa bụa và tất cả những ai đến với Ngài với những nỗi khổ đau của mình, xuất phát từ lòng thương cảm của Thiên Chúa, một lòng thương cảm đã khiến Thiên Chúa trở thành một người ở giữa ta.
Ta cần để ý kỹ những lời nói và hành động của Chúa Giêsu, nếu ta muốn có được một nhận thức về mầu nhiệm của lòng xót thương này của Thiên Chúa.
Ta sẽ hiểu lầm nhiều chuyện lạ lùng trong Tin Mừng nếu ta chỉ biết để cho mình bị ấn tượng bởi sự kiện những người bệnh hoạn, tật nguyền bất chợt được giải thoát khỏi tình trạng của họ. Nếu đây quả là biến cố trung tâm của các câu chuyện ấy, thì những kẻ hồ nghi có lẽ đã nhận xét ngay rằng, hầu hết những người đương thời với Chúa Giêsu đã không được chữa lành và những kẻ được chữa lành chỉ làm cho tình trạng bi đát hơn những kẻ không được chữa lành.
Điều quan trọng ở đây không phải là việc chữa lành những kẻ bệnh hoạn, mà là lòng xót thương sâu thẳm đã thôi thúc Chúa Giêsu thực hiện những cuộc chữa lành ấy.
Trong Tin Mừng có một thành ngữ rất đẹp chỉ xuất hiện 12 lần và chỉ được sử dụng cách riêng khi ám chỉ tới Chúa Giêsu hoặc Chúa Cha. Thành ngữ đó là “ động lòng trắc ẩn”. Tiếng Hy Lạp cho ta thấy ý nghĩa sâu sắc và mạnh mẽ của thành ngữ này. Là nói tới bộ đồ lòng của con người, hoặc tim, cật như ngày nay ta vẫn nói. Đó là nơi những cảm xúc sâu thẳm và thân mật nhất của ta chiếm đóng. Đó là trung tâm, từ trung tâm ấy cả tình yêu say đắm và sự căm ghét mọc lên. Khi nói về lòng xót thương của Chúa Giê-su theo kiểu Ngài thổn thức trong lòng, các Tin Mừng đang diễn tả một điều gì đó rất sâu và rất nhiệm mầu. Lòng xót thương mà Chúa Giêsu cảm thấy rõ ràng khác hẳn với những tình cảm buồn đau hoặc sự cảm thông hời hợt, chóng qua. Hơn nữa, lòng xót thương ấy còn mở rộng tới chỗ yếu nhược nhất của con người. Lòng xót thương ấy có nghĩa là cõi lòng của Giavê (trong tiếng Hipri).
Trong Tin Mừng có một thành ngữ rất đẹp chỉ xuất hiện 12 lần và chỉ được sử dụng cách riêng khi ám chỉ tới Chúa Giêsu hoặc Chúa Cha. Thành ngữ đó là “ động lòng trắc ẩn”. Tiếng Hy Lạp cho ta thấy ý nghĩa sâu sắc và mạnh mẽ của thành ngữ này. Là nói tới bộ đồ lòng của con người, hoặc tim, cật như ngày nay ta vẫn nói.
Đó là nơi những cảm xúc sâu thẳm và thân mật nhất của ta chiếm đóng.
Đó là trung tâm, từ trung tâm ấy cả tình yêu say đắm và sự căm ghét mọc lên.
Khi nói về lòng xót thương của Chúa Giê-su theo kiểu Ngài thổn thức trong lòng, các Tin Mừng đang diễn tả một điều gì đó rất sâu và rất nhiệm mầu.
Lòng xót thương mà Chúa Giêsu cảm thấy rõ ràng khác hẳn với những tình cảm buồn đau hoặc sự cảm thông hời hợt, chóng qua.
Hơn nữa, lòng xót thương ấy còn mở rộng tới chỗ yếu nhược nhất của con người.
Lòng xót thương ấy có nghĩa là cõi lòng của Giavê (trong tiếng Hipri).
Quả thế, lòng xót thương là một tình cảm mãnh liệt, chính yếu và sâu thẳm nơi Chúa Giêsu, đến độ ta chỉ còn có thể mô tả là sự động lòng của Thiên Chúa. Nơi ấy, ẩn giấu tất cả sự diệu hiền và nhẹ nhàng của Thiên Chúa. Nơi ấy, Thiên Chúa là Cha và là Mẹ, là anh và là chị, là con trai và là con gái. Nơi ấy, mọi tình cảm, xúc cảm và đam mê là một trong tình yêu Thiên Chúa. Khi Chúa Giêsu động lòng trắc ẩn, thì nguồn mạch của sự sống lay động, nền tảng của mọi tình yêu bật tung và vực thẳm của sự hiền lành mênh mông, sâu thẳm và bất tận của Thiên Chúa được tỏ lộ ra.
Quả thế, lòng xót thương là một tình cảm mãnh liệt, chính yếu và sâu thẳm nơi Chúa Giêsu, đến độ ta chỉ còn có thể mô tả là sự động lòng của Thiên Chúa.
- Nơi ấy, ẩn giấu tất cả sự diệu hiền và nhẹ nhàng của Thiên Chúa.
- Nơi ấy, Thiên Chúa là Cha và là Mẹ, là anh và là chị, là con trai và là con gái.
- Nơi ấy, mọi tình cảm, xúc cảm và đam mê là một trong tình yêu Thiên Chúa.
Khi Chúa Giêsu động lòng trắc ẩn, thì nguồn mạch của sự sống lay động, nền tảng của mọi tình yêu bật tung và vực thẳm của sự hiền lành mênh mông, sâu thẳm và bất tận của Thiên Chúa được tỏ lộ ra.
Đây là mầu nhiệm của lòng xót thương của Thiên Chúa khi mầu nhiệm ấy trở thành hữu hình trong các câu chuyện chữa lành của Tân Ứớc. Khi Chúa Giêsu thấy đám đông bơ vơ, vất vưởng như chiên không người chăn dắt, Ngài đã cảm thương họ tận cõi thẳm sâu của lòng mình (Mt 9,36). Khi thấy người ta từ mọi nơi, đem đến cho ngài những người đui mù, què quặt và điếc lác, Ngài cảm thấy bồi hồi và lòng Ngài quặn đau với họ (Mt 14,14). Khi thấy rằng hàng ngàn người đi theo Ngài nhiều ngày, đã thấm mệt, đói khát, Ngài đã thốt lên, Thầy xót thương dân này (Mc 8,2). Và Ngài cũng thốt lên như thế với hai người mù đã van xin sau lưng Ngài (Mt 9,27), với người phong cùi sấp mình dưới chân Ngài ( Mc 1,41), và với bà góa thành Naim, đang đưa xác đứa con trai duy nhất của mình (Lc 7,13). Họ làm cho Ngài xúc động, làm cho Ngài cảm được nỗi thống khổ của họ với tất cả những sự nhạy bén của Ngài. Ngài trở thành mất mát với kẻ mất mát, đói với người đói, bệnh với kẻ bệnh. Nơi Ngài, luôn có một sự nhạy bén đặc biệt với mọi nỗi khổ đau.
Đây là mầu nhiệm của lòng xót thương của Thiên Chúa khi mầu nhiệm ấy trở thành hữu hình trong các câu chuyện chữa lành của Tân Ứớc.
- Khi Chúa Giêsu thấy đám đông bơ vơ, vất vưởng như chiên không người chăn dắt, Ngài đã cảm thương họ tận cõi thẳm sâu của lòng mình (Mt 9,36).
- Khi thấy người ta từ mọi nơi, đem đến cho ngài những người đui mù, què quặt và điếc lác, Ngài cảm thấy bồi hồi và lòng Ngài quặn đau với họ (Mt 14,14).
- Khi thấy hàng ngàn người đi theo Ngài nhiều ngày, đã thấm mệt, đói khát, Ngài đã thốt lên, Thầy xót thương dân này (Mc 8,2).
- Và Ngài cũng thốt lên như thế với hai người mù đã van xin sau lưng Ngài (Mt 9,27), với người phong cùi sấp mình dưới chân Ngài ( Mc 1,41), và với bà góa thành Naim, đang đưa xác đứa con trai duy nhất của mình (Lc 7,13).
Họ làm cho Ngài xúc động, làm cho Ngài cảm được nỗi thống khổ của họ với tất cả những sự nhạy bén của Ngài.
Ngài trở thành mất mát với kẻ mất mát, đói với người đói, bệnh với kẻ bệnh. Nơi Ngài, luôn có một sự nhạy bén đặc biệt với mọi nỗi khổ đau.
Mầu nhiệm lớn lao được mặc khải ra cho ta, đó là Chúa Giêsu, Đấng là con Thiên Chúa vô tì tích, đã hoàn toàn tự do chọn chịu cách trọn vẹn nỗi thống khổ của ta và như thế đã để ta khám phá ra bản chất đích thực của những đam mê nơi ta. Nơi Ngài, ta thấy và kinh nghiệm con người thực sự là gì. Ngài là Thiên Chúa, đã sống thân phận đỗ vỡ của loài người chúng ta không phải như một sự nguyền rủa ( St 3,14-19), mà như một sự chúc phúc. Lòng xót thương của Thiên Chúa nơi Ngài đã làm cho ta có thể đối diện với tôi tội lỗi của chúng ta, vì lòng thương xót ấy vẫn luôn biến đổi điều kiện nhân phàm đổ vỡ của ta, từ một nguyên nhân của thất vọng thành nguồn hy vọng.
Đó là điều ta muốn nói khi bảo rằng Chúa Giêsu Kitô mạc khải ra tình liên đới của Thiên Chúa với ta. Trong và nhờ Chúa Giêsu Kitô ta biết rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa của ta, một Thiên Chúa đã kinh nghiệm được sự đỗ vỡ của ta, đã trở nên sự tội vì ta ( 2 Cr 5,21). Ngài đã ôm lấy mọi sự của con người với sự dịu hiền vô tận của lòng thương xót của Ngài.
Như vậy, lòng thương xót của Thiên Chúa không phải là một cái gì đó trừu tượng hoặc là không rõ ràng, nhưng là một thái độ cụ thể, đặc biệt trong đó, Thiên Chúa ra khỏi mình để đến với ta. Trong Chúa Giê-su Ki-tô ta thấy được sự viên mãn của lòng thương xót của Thiên Chúa Cha.
Thay lời kết xin mượn Câu chuyện: Thiên Chúa giàu lòng thương xót.
Một người phạm tội ác, khi chết ra trước tòa Chúa phán xét. Hôm ấy không có Chúa mà chỉ có 4 nhân vật nổi tiếng trong Kinh Thánh là Apraham, Đa-vít, Phê-rô và Lu-ca. Trong hồ sơ của người đó không có hành động nào là tốt đẹp cả.
Tổ phụ Apraham liền phán quyết: - Người như ngươi thì làm sao vào thiên đàng. Hãy lui ra.
Kẻ gian ác liền kêu lên: - Thưa tổ phụ Apraham, con tin chắc cha hiểu rõ lòng nhân từ thương xót của Chúa. Vì cha đã nói dối để khỏi bị giết khi nói vợ của cha là em. Vậy mà Chúa nhân từ cũng tha cho cha và chọn cha làm tổ phụ loài người.
Vua Đa-vít liền bác lời anh và nói: - Tổ phụ Apraham đã phán quyết đúng, vì ngươi phạm biết bao nhiêu tội ác thì làm sao vào thiên quốc được.
Người khốn khổ liền van xin: - Thưa vua Đa-vít, con nhận biết con là kẻ tội lỗi nhiều, nhưng xin ngài thương tha thứ. Ngài đã phạm tội ngoại tình với vợ quan Uria và ngài còn lập kế giết quan ấy để che đậy tội ác. Xin ngài thương tha cho con như Chúa đã thương tha cho ngài.
Thấy thế thánh Phê-rô lên tiếng: - Ngươi làm sao sánh được với vua Đa-vít. Ngài đã tha thiết thống hối ăn năn, còn ngươi cứ dùng đủ mánh mung bào chữa và kêu trách Chúa.
Tội nhân liền thổn thức: - Thật con có kêu lên Chúa trong lúc giận dữ. Nhưng xin thánh Phê-rô thương tha lỗi cho con, vì mặc dầu ngài thề hứa không bao giờ bỏ Chúa, mà ngài lại chối Chúa ba lần.
Thấy phiên xử cứ giằng co mãi, thánh Lu-ca lên tiếng: - Ngươi hãy lui ra. Ngươi không xứng đáng được vào Nước Chúa.
Tội nhân buồn rầu thất vọng, nhưng cố gắng lần cuối: - Thật sự hồ sơ của con đã ghi rõ tội ác của con. Con đáng luận phạt. Nhưng con tin chắc tổ Apraham, vua Đa-vít, thánh Phê-rô sẽ bầu chữa cho con, vì các ngài đã trải qua yếu hèn của con người mà được Chúa thứ tha. Còn phần ngài, thưa vị lương y tốt lành, con biết ngài cũng sẽ xin Chúa mở cửa thiên đàng cho con, vì chính ngài đã viết về lòng thương xót hải hà của Chúa đối với chiên lạc. Con là chiên lạc mà Chúa Giê-su đã bỏ 99 con khác đi tìm con, và 12 tông đồ đi cứu vớt con.
Vừa nghe nói thế, thánh Lu-ca liền ôm tội nhân vào lòng và cửa thiên đàng mở ra.
Thật hợp lý khi ta kết thúc bằng việc suy gẫm lời kinh của Năm Thánh Lòng Thương xót, rồi từ đó đưa ra những hành động cụ thể để áp dụng hàng ngày trong Năm Thánh này: “Lạy Chúa….Xin sai Thần Khí Chúa đến xức dầu thánh hiến mỗi người chúng con, để Năm Thánh Lòng Thương Xót này trở thành năm hồng ân của Chúa cho chúng con; và để Hội Thánh Chúa, với lòng hăng say mới, có thể mang Tin Mừng đến cho người nghèo, công bố sự tự do cho các tù nhân và những người bị áp bức, trả lại ánh sáng cho kẻ mù lòa”. Amen.
Bài giảng Tĩnh tâm Chúa Nhật 6/3/2016
Xin trích nguyên văn những chia sẻ của Cha Giuse Phạm Văn Bình, Chánh xứ GX An Tôn, Cầu Ông Lãnh phụ trách.
Với chủ đề “Mỗi người chúng ta đã thực thi lòng thương xót như thế nào trong cuộc sống của mình?”, qua bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ IV Mùa Chay, (Lc, 15,1-3.11-32)-
“Em con đây đã chết mà nay sống lại “
Cha Giuse Phạm Văn Bình, Chánh xứ GX An Tôn, Cầu Ông Lãnh
Qua câu chuyện người con hoang đàng mà anh chi em đã nghe qua không biết bao nhiêu lần, xin thử nhận xét xem nhân vật nào trong bài hạnh phúc nhất?
Phải chăng là đứa con út? Vì nó quay trở về và được cha nó tha thứ việc nó đòi phân chia tài sản và ăn chơi trác tán mà phung phí hết, giờ nay được trở về, được cho ăn mặc đẹp, được phục hồi tư cách làm con, làm cậu chủ ăn sung mặc sướng...
Phải chăng là người anh cả? Chắc là không thể nào.
Vậy còn lại người cha già? Vâng đúng như vậy. Ở đây xin lấy một ví dụ rất gần gũi với anh chị em để mỗi người hiểu rõ mình đã nhìn đúng hay sai. Nếu anh chị em có một đứa con mà nó bỏ nhà đi bụi đời, xì ke, ma tuý, chơi bời, anh chị em buồn hay vui? Rất buồn lắm, Anh chị em khổ sở hay hạnh phúc? Rất là khổ sở và xấu hổ. Vậy nếu một ngày nào đó nó trở về với thân tàn ma dại, anh chị em buồn hay vui? Hãy vui vì dẫu gì đi nữa nó cũng là con của mình và nếu nó lăng đùng ra chết trước cửa nhà mình thì cũng phải vui vì chẳng thà nó chết trong vòng tay mình, trong nhà mình còn hơn là chết nơi đầu đường xó chợ.Thưa anh chị em, nếu nó trở về vẫn còn lành lặng, mạnh khoẻ và chẳng có dấu gì ăn năn hối cải, anh chị em cũng nên vui như thường, vì dẫu sao nõ vẫn là con của mình.
Người cha trong tin mừng ngày hôm nay mới chính là người hạnh phúc nhất, người cha đã chờ con bao nhiêu năm lưu lạc, bao nhiêu năm người cha già lo lắng, ăn ngủ không yên, lo lắng con mình đầu đường xó chợ không biết sống sao, chịu bao khổ sở thế nào, có bị tủi nhục đau đớn gì không? Mà giờ đây nó quay đầu về nhà, ăn năn hối hận được người cha tha thứ, ôm vào lòng hôn lấy hôn để.
Ngày hôm nay phụng vụ lời Chúa muốn ta hiểu được rằng người cha là người hạnh phúc nhất và vì vậy Chúa Nhật thứ 4 mùa chay được gọi là CHÚA NHẬT CỦA NIỀM VUI. Niềm vui được Chúa thương xót con người, tha thứ cho con người và luôn muốn con người ăn năn quay trở lại. Tại sao người cha lại vui? Là vì con ông đã trở về và người cha trong đoạn tin mừng mà Chúa Giê Su muốn ám chỉ Thiên Chúa là Cha luôn đợi chúng ta trở về, vì Thiên Chúa là đấng sinh ra chúng ta cũng như chúng ta sinh ra con cái và không muốn chúng phải chết, cũng vậy Thiên Chúa của chúng ta không muốn con người phải chết, cho dầu có tội gì đi chăng nữa, Ngài muốn chúng ta trở về. Niềm vui khi chúng ta trở về và được Ngài ôm vào lòng.
Do đó ngày hôm nay niềm vui đích thực được diễn tả trong phụng vụ là niềm vui của người được Thiên Chúa tha thứ. Ngài cứu sống y như trong bài đọc thứ nhất của sách Giô- Suê: "Dân Israel được Thiên Chúa đưa ra khỏi đất Ai Cập và tiến vào miền đất hứa Ca-na-an, hưởng phần gia nghiệp Chúa ban và họ mở tiệc ăn mừng lễ vượt qua để tạ ơn Thiên Chúa. Và lời thánh Phao-lô trong bài thứ 2 cho chúng ta hiểu rằng, chúng ta được ơn giao hoà với Thiên Chúa, được thiên Chúa tha thứ vì chúng ta được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa, mà nếu Thiên Chúa để chúng ta bị chết trong tội lỗi thì Thiên Chúa thất bại trong cuộc đời của chúng ta, Thiên Chúa thất bại trong thế giới này.
Ngài không thể thất bại được, chính chương trình cứu độ của Thiên Chũa nhằm cứu vãn con người không bị chết. Thuở xưa nhiều lần nhiều cách, Thiên Chúa đã nói với dân của người qua các trung gian, các tổ phụ, các ngôn sứ, nhưng vào thời sau hết Thiên Chúa đã cứu con người bằng chính con mình, Thiên Chúa làm người và ở giữa chúng ta. Như đề tài được chia sẻ vào thứ 6: Thiên Chúa là đấng giàu lòng thương xót, đề tài thứ 7: Thiên Chúa là đấng vô hình, là đấng vô hình cứu chuộc con người cốt là để nói lên thông điệu SỐNG LÀ ĐỂ YÊU THƯƠNG.
Ngày hôm nay chúng ta không còn đựơc ở với Ngài nữa, Ngài đã về trời nhưng sứ mạng yêu thương vẫn còn hiện diện nơi đây, đó chính là HỘI THÁNH hôm nay, là dấu chỉ lòng thương xót của Thiên Chúa. Vậy hội thánh là ai? Là Đức Giáo Hoàng, các Đức Giáo Mục, các Linh mục, các Tu sĩ nam nữ... Như vậy hội thánh là tập hợp tất cả tập thể con người tin nơi Đức Giê-Su Ki-Tô và trong đó có cơ cấu tổ chức và tất cả anh chị em đang hiện diện nơi đây, anh chj em chính là hội thánh, là nhiệm thể của Chúa Giê-su Ki-Tô, là con của Thiên Chúa, là người anh em của Đức Giê-su Ki-Tô và đang thi hành sứ mạng của Ngài, được ơn gọi đem yêu thương đến cho trần gian này.
Thế nên chủ đề ngày hôm nay là dấu chỉ của Thiên Chúa vô hình và hội thánh là hiện thân của Đức Giê-su Ki-Tô, Đấng đã chết thập giá, đã phục sinh sống lại từ cõi chết, ngài đã lên trời và ngày hôm nay hội thánh tiếp tục sứ mạng. Vậy chúng ta phải làm gì hôm nay để thế giới biết đến Thiên Chúa. Chung quanh chúng ta còn rất nhiều người không tin Thiên Chúa vì khi không thấy Ngài, cũng như họ, chúng ta cũng không thấy nhưng Chúa Giê- Su đã xuống thế làm người, ngài hiện diện giữa chúng ta, chúng tôi biết được người qua các công việc người làm. Ngài đã về trời và ngày nay người không còn nữa nhưng có chúng tôi, chính chúng tôi là hiện diện của Ngài, nhìn thấy chúng tôi mà nhận ra rằng có một Thiên Chúa nơi chúng tôi đang bày tỏ tình thương xót của Ngài.
Chính anh chị em là các Ki-Tô hữu, là những người anh em của Đức Ki-Tô, đang mang Ngài trong thân xác con người của mình và đem Ngài vào cuộc đời của mình để nói với những người xung quanh mình về Đức Ki-Tô. Bất cứ nơi nào Ki-Tô Hữu đến mang theo bên mình Đức Ki-Tô với tư cách là hội thánh của Đức Ki-Tô.
Lời mời gọi anh chị em không chỉ đến nhà nhà thờ tham dự thánh lễ một cách sốt sắng, mà còn kêu gọi anh chị em nâng mình lên cao hơn một bậc, tôi mang Đức Ki-Tô trong con tim tôi, tôi mang Ngài về với gia đình, vậy tôi phải sống làm sao để người ta nhận ra được tôi đang mang xứ điệp của năm LÒNG THƯƠNG XÓT CHÚA.
Bây giờ thế giới không còn nhìn thấy Thiên Chúa mà chỉ thấy hội thánh, bà con xung quanh chúng ta chỉ thấy giáo xứ này nọ hiện diện xung quanh. Thế thì lý luận ở đây là gì? Chúng ta, những người Ki-Tô hữu phải sống như thế nào? Thiên Chúa Cha trong bài tin mừng hôm nay hạnh phúc nhất khi gặp lại một thằng con đã đi hoang mà bây giờ trở về, hội thánh của Đức Ki-Tô chính là chúng ta đây bằng cách này cách khác để có thể mời gọi dược những người khác chưa nhận biết Chúa.
Kinh năm thánh trong đó Đức Giáo Hoàng có cầu nguyện cho các thừa tác viên làm sao bày tỏ được lòng thương xót của Chúa, để đến với các Ngài thì tìm được, nhận ra được lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức Giáo Hoàng muốn nói đến những người đang làm công việc mục vụ, để các anh chị em khi đến với các ngài trong lòng yêu thương và thương xót như Chúa, qua đó diễn tả được lòng hiếu khách, lòng yêu thương của các mục tử mang đến cho mọi người bình an, vui vẻ, là nơi để trút những gánh nặng, những nỗi lo âu khổ sở của cuộc đời và những cái ẩm ức trong tâm hồn. Và chính ở nơi các Ngài cũng phải sống đúng năm thánh để mỗi mục tử phải trở thành con tim của Chúa Cha như lời Đức Giáo Hoàng mong muốn, sau đó chạm đến tất cả anh chị em để mọi người Ki-Tô hữu đều trở thành khí cụ của tình yêu và phúc cho ai có tin thần nghèo khó thì học sẽ được... phúc cho ai biết xót thương thì họ sẽ được Thiên Chúa thương xót.
Xót thương như Chúa là thế nào? Trong bài tin mừng khi người cha thấy thằng con từ xa xa thì ông chạnh lòng thương và chạy ra ôm con chằm chằm, ông hôn lấy hôn để, tại sao vậy? Cái hạnh phúc của ông bố chưa dừng tại đó, ông không kịp để con mình nói điều gì, ông ra hàng loạt mệnh lệnh đem áo, phục hồi tư cách cho cậu, xỏ nhẫn, mang dép, giết bê để cả nhà ăn mừng vì nó tưởng chừng như đã chết mà nay sống lại, như mất đi nay tìm lại được.
Trong lời kinh hằng ngày trước giờ lễ có rất nhiều công việc mà ứng với con tim nhân ái chạnh lòng thương của người cha là kinh mười bốn mối. Khi ra trước toà phán xét nếu bạn yêu Thiên Chúa là Cha, yêu Đức Giê-Su là đấng chết cho bạn thì bạn phải yêu tha nhân, Thiên Chúa không cần vinh quang vì tất cả đã thuộc về Ngài, mà chính khi chúng ta yêu tha nhân thì lúc ấy Thiên Chúa mới được vinh quang rạng ngời, khi ấy là chúng ta đóng được vai trò của Đức Giê-Su loan báo tin mừng (thần khí Chúa ngự trên tôi, Ngài sức dầu trên tôi, sai tôi đem tin mừng đến cho những người nghèo khó). Mà Tin mừng cho người nghèo khó là kẻ đói được cho ăn, kẻ khát được cho uống, kẻ rách rưới được cho ăn mặc, kẻ đau khổ thì được an ủi... Chỉ đơn sơ như vậy thôi. Vì thế kinh mười bốn mối dẫn chúng ta vào ngay công việc chúng ta có thể làm. Khi chính anh chị em gặp Đức Ki-Tô trong ngày cuối cùng thì Ngài không hỏi chúng ta có làm chức vụ gì, của cải trong cuộc sống nhiều như thế nào, mà chỉ hỏi ngay cốt lõi niềm tin Ki-Tô giáo, cốt lõi của đời sống giáo hội là bạn đã thương xót được bao nhiêu?
Năm thánh lòng thương xót Chúa mời gọi chúng ta vừa chiêm ngắm Thiên Chúa là đấng hay thương xót, để mình vui, mình mừng, mình hạnh phúc vì được Chúa yêu thương và tha thứ, thế nên anh chị em đừng ngần ngại đến với toà giải tội, đừng ngần ngại đến với các vị giám mục của anh chị em, cho dù họ chỉ là những người bình thường, cũng là người tội lỗi, bất toàn, nóng nảy. Mặt khác chúng ta chẳng những đến mà còn vui khi được Thiên Chúa tha thứ, mà cao quý hơn chúng ta được mời gọi trở nên những người Ki-Tô hữu, có con tim của Thiên Chúa để chính anh chị em thương xót những người chung quanh và không chỉ những người đói, khát, rách rưới, khổ sở, không đâu xa đó là ngay chính trong gia đình mình. Bố mẹ ở nhà già yếu, bệnh tật rất cần được chúng ta chia sẻ quan tâm và chăm sóc, với vợ mình quần quật tất tả với mọi công việc không tên trong nhà từ sớm đến khuya thế nên rất cần những phút giây quan tâm, rất cần sự chia sẻ động viên, cùng nhau đỡ đần. Đó chính là tình yêu thương mà không phải là lòng thương hại. Trong tình yêu không có lòng thương hại nhưng bạn phải thương vì chính thánh Phao-Lô đã nói: ai thương vợ mình chính là yêu bản thân mình. Không ai ghét bản thân mình vì thế phải yêu thương, cùng nhau vun đắp xây dựng gia đình, đó là mái ấm của hạnh phúc tình yêu, nơi đó chúng ta tạo ra niềm vui cho nhau.
Chúa mời gọi chúng ta vui mừng vì chúng ta có Thiên Chúa là đấng yêu thương và luôn luôn tha thứ. Để rồi đến ngày hôm nay sứ mạng của chúng ta là làm cho những người xung quanh gặp được chúng ta họ vui mừng vì chúng ta có con tim của Chúa. Chúng ta hãy cảm tạ và dâng lời cầu xin Chúa: Xin Chúa cho chúng con biết chuyên cần lắng nghe Lời Chúa, chăm chỉ, siêng năng lòng thương xót của Chúa, và xin giúp chúng con mạnh dạn sống lòng thương xót ấy, để mọi người nhìn vào Hội Thánh Công Giáo, nhìn vào cuộc đời của chúng con đều có thể gặp được lòng nhân ái của chúng con, và lòng nhân ái của chúng con phản ánh lòng nhân ái của Thiên Chúa, vì Chúa đã hằng yêu thương và tha thứ cho chúng con.
Kết Lể Cha Giuse Phạm Văn Bình gửi lời cầu chúc cho cộng đoàn dân Chúa tiếp tục Mùa Chay Thánh và được hồng ân của Chúa trong ngày Lễ mừng Chúa Phục Sinh.
Giáo dân nhận bí tích hòa giải
Sau mỗi buổi tĩnh tâm, Cha Sở và các Cha Dòng Phanxicô đã giúp cho giáo dân nhận bí tích hòa giải, trong tình yêu thương và lòng thương xót của Chúa dành riêng cho mỗi người.